CẢNH BÁO AN NINH NGUYÊN LIỆU NGÀNH CÀ PHÊ

0
511

CẢNH BÁO AN NINH NGUYÊN LIỆU NGÀNH CÀ PHÊ

Trong khi thị trường luôn biến động với xu thế tăng về giá cả thì trong khoảng 1 thập kỷ qua, giá cà phê bán ra tại Việt Nam chỉ khoảng 13-16 USD/kg. Giá cà phê nguyên liệu thấp đang tạo ra thách thức cho các quốc gia trồng cà phê và những người nông dân, tạo ra sự nguy hiểm tiềm ẩn cho việc bảo vệ và phát triển vùng nguyên liệu ngành.

Giá cà phê thấp, nông dân bỏ vườn cà phê

Đang vào vụ thu hái cà phê, nhưng nhiều nông dân ở TP Buôn Ma Thuột, Đắk Lắk, Việt Nam, vẫn chật vật để kiếm được nhân công hái cà phê, dù trả tiền công cao.

Có một nghịch lý là cà phê được bán với giá rất bèo, nhưng để kiếm được người hái cà phê thì lại rất khó, bởi phần lớn thanh niên trong buôn đã rời khỏi địa phương để kiếm việc làm do thu nhập từ vườn cà phê mấy năm nay quá thấp. Tại một gia đình trồng cà phê ở đây, với năng suất 3 – 3,5 tấn/ha và giá cà phê trên dưới 13 USD/kg như hiện nay, tổng doanh thu chỉ đạt khoảng 4.300 USD/ha. Trong khi đó, chi phí chăm sóc vườn cà phê đã lên tới 2.100 – 2.600 USD đồng/năm.

Ở vùng này, vì giá quá thấp, chi phí không đủ nên nhiều người dân đã chặt bỏ vườn cây cà phê để trồng hồ tiêu. Thế nhưng giá tiêu cũng từ mức gần 8.7 USD /kg rớt xuống còn khoảng 2.6 USD/kg khiến nông dân thêm một lần khốn khổ. Nhiều người đang có ý định trở lại trồng cà phê nhưng với mức giá hiện nay ít người dám mạo hiểm một lần nữa.

Trong khoảng 10 năm qua, giá cà phê tại Việt Nam vẫn trên dưới 13 USD/kg, nông dân không thể “ngóc đầu lên được” vì chỉ hòa vốn, thậm chí lỗ. Ngay cả doanh nghiệp buôn bán cà phê cũng luôn thấp thỏm với rủi ro về giá do thị trường này bị chi phối bởi các quỹ đầu tư tài chính, bởi dù Việt Nam là quốc gia có sản lượng cà phê lớn thứ 2 thế giới như giá cả mặt hàng này hoàn toàn phụ thuộc vào nhà nhập khẩu và luôn bị đánh giá là chất lượng thấp. Lý do chính là bởi nông dân thu hoạch đại trà theo kiểu ‘xanh nhà hơn già đồng’, khiến cho chất lượng cà phê bị kém, thiếu mùi vị đặc trưng, sản phẩm trở nên khó bán hoặc phải bán với giá thấp.

Thách thức gia tăng cho vùng nguyên liệu cà phê tại Việt Nam

Năm 2020 là một năm đầy khó khăn đối với ngành cà phê. Do tác động bởi đại dịch Covid-19, hầu hết các thị trường đều giảm nhập cà phê, chỉ có một số ít thị trường tăng nhập.

Trong khi đó, sản lượng cà phê Conilon Robusta của Brazil tăng đột biến, gấp đôi so với cùng kỳ năm ngoái. Do đó, giá cà phê Robusta VN chịu sự cạnh tranh khốc liệt, nhiều thị trường xuất khẩu giảm mạnh.

Xuất khẩu cà phê trong năm 2021 của Việt Nam vẫn còn nhiều khó khăn khi vụ cà phê mới ở Brazil vẫn được mùa, nhất là hàng Conilon Robusta sẽ tiếp tục gây khó cho giá cà phê xuất khẩu, chưa kể giá cước vận chuyển tăng cao thời gian qua cũng làm khó doanh nghiệp cà phê Việt Nam.

Chính vì thế, ngành cà phê VN đang phải tính đến một chiến lược mới để giữ gìn và phát triển nguồn nguyên liệu của mình, tránh để rơi vào tình trạng báo động vì cạn kiệt. Hiện nay, ngành cà phê Việt Nam đang thiếu sự liên kết giữa các doanh nghiệp để tạo rao một công nghệ sản xuất quy mô lớn, hướng đến một nền sản xuất khoa học, đúng quy trình để đưa ra những mặt hàng cà phê chất lượng cao, cà phê đặc sản. Khi tham gia liên kết, người dân sẽ thực hiện quy trình chăm sóc và thu hoạch cà phê bền vững có chứng nhận kiểm tra theo các tiêu chuẩn như: UTZ, Rainforest, 4C hoặc Chỉ dẫn địa lý cà phê Buôn Ma Thuột. Khi giá cà phê tốt, việc sản xuất cà phê chất lượng, thậm chí cà phê đặc sản không phải là chuyện khó với ngành cà phê Việt Nam.

Ngoài cà phê nhân, thời gian qua VN cũng đẩy mạnh sang chế biến và xuất khẩu cà phê rang xay, hòa tan. Tuy nhiên, lượng cà phê chế biến sâu mới chỉ chiếm khoảng 12% tổng kim ngạch xuất khẩu cà phê, phần lớn còn lại vẫn là cà phê nhân có giá trị thấp. Trong khi đó, lợi nhuận từ cà phê hiện nằm trong tay những tập đoàn quốc tế chế biến và phân phối với hơn 90% tổng lợi nhuận. Các tập đoàn này một mặt thu mua cà phê thô của Việt Nam với giá rẻ, một mặt kêu ca về chất lượng của cà phê Việt Nam để dìm giá, mặt khác lại xuất cà phê Việt Nam sang một nước thứ ba, làm mất đi thương hiệu cà phê Việt Nam, rồi lại tái nhập Việt Nam và đóng mác một nước khác để thu lại giá trị cao hơn nhiều lần, khiến cho cà phê Việt Nam trong suốt một thập kỷ qua chỉ quanh quẩn ở mức giá thấp, khiến cho nông dân phải chặt bỏ cây trồng.

“Chảy máu” cà phê thô

Có hai hiện tượng nghịch lý trong ngành công nghiệp cà phê.

Một là, các nước sản xuất và xuất khẩu cà phê trên thế giới không phải là những nước mạnh về kinh tế, công nghệ, phần lớn thuộc về khu vực đang phát triển được gọi là phía nam trên toàn cầu so với phía bắc là khu vực phát triển. Những nước này nằm quanh vành đai xích đạo thuộc khí hậu nhiệt đới và á nhiệt đới, tuy trồng nhiều nhưng lại không phải là những nước tiêu thụ cà phê mạnh và phải phụ thuộc vào các nước phát triển như Tây Âu, Bắc Mỹ, và Nhật cho thứ hàng nông sản này của mình. Những sàn giao dịch nông phẩm trong đó có cà phê định đoạt giá cả cho thị trường là ở London, New York, Hamburg – chứ không phải tại những xứ sở xuất khẩu.

Những nông sản phẩm này trên các thị trường chứng khoán giao dịch được gọi chung là futures (tương lai) tức là chỉ những sản vật hoặc tồn kho sẽ được giao hàng trong tương lai; thường là cho vụ mùa tới hoặc năm tới. Vì những hàng nông sản lệ thuộc rất nhiều vào thời tiết biến đổi thất thường hằng năm lên xuống – khác với sản phẩm công nghệ có thể trù hoạch và tiên đoán là điều chỉnh khít khao theo số cầu và số cung hơn rất nhiều. Do đó giá cả thăng giáng trên thị trường biến thiên theo tự thu hoạch hằng năm và kho dự trữ an toàn.

Cả hai hiện tượng nghịch lý này đều nằm trong một luận lý rất chặt chẽ chi phối kinh tế toàn cầu hàng trăm năm qua.Hai là, Việt Nam hiện là nước sản xuất và xuất khẩu số lượng cà phê lớn nhất trên thế giới, nhưng thương hiệu của cà phê Việt Nam thì hầu như không được ai biết đến, vô hình vô ảnh, không tên không hiệu. Trong khi đó, những thương hiệu lẫy lừng và quen thuộc với người tiêu dùng khắp thế giới lại thuộc về những tập đoàn lớn, chuyên chế biến và phân phối, ở những cường quốc công kỹ nghệ nhưng lại không hề sản xuất.

Trong những sản phẩm tự nhiên, dầu hỏa và cà phê là những trường hợp điển hình cho cơ chế kinh tế toàn cầu này. Sau hơn một thế kỷ bị khai thác mạnh mẽ, các quốc gia sản xuất và xuất khẩu dầu thô đã thành lập một tổ chức định đoạt khai thác và làm giá cho thứ hàng hóa chiến lược này vào năm 1973 và ngày càng có sức ảnh hưởng mạnh mẽ, tạo ra quyền lực riêng cho những nước xuất khẩu dầu mỏ.

Không giống như dầu hỏa được sử dụng cho những nhu cầu nóng như chiến tranh,… cà phê gần như một thứ quyền lực mềm, hòa bình, và chủ yếu đáp ứng cho tập quán tinh thần, khai phá và sáng tạo. Trong khi dầu thô là giới hạn và không thể tái tạo được nên ngày càng cạn kiệt thì cà phê là nguồn “dầu mỏ” có khả năng tái tạo nếu có một chính sách phát triển bền vững, có thể tồn tại lâu dài cùng con người.

Để thoát khỏi tình trạng chảy máu cà phê thô và xây dựng an ninh nguyên liệu cà phê, chính phủ và các doanh nghiệp cà phê Việt Nam đang tìm kiếm mô hình hợp tác nhằm tạo nên một tổ chức gồm những nước xuất khẩu cà phê trên thế giới.

Đọc thêm nhiều bài hay về cà phê tại: https://vsca.vn/?lang=vi

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here